Các cuộc cải cách Hoàng_Thái_Cực

Khi lên nối ngôi Đại Hãn của cha mình, Hoàng Thái Cực không chỉ kế thừa sự nghiệp mà còn mở mang hùng mạnh hơn. Về điểm này, hùng tâm tráng khi của ông hơn hẳn cha mình. Nếu như Nỗ Nhĩ Cáp Xích là một võ tướng tài ba thì Hoàng Thái Cực còn là một nhà chính trị kiệt xuất. Từ những nền móng quốc gia chiếm hữu nô lệ của cha mình, ông đã tiến hành hàng loạt cải cách để phát triển thành một quốc gia phong kiến hùng mạnh, dù không kịp nhìn thấy cơ nghiệp của mình hoàn thành.

Bãi bỏ chế độ Nghị chính vương

Như đã nêu trên, với chế độ Nghị chính vương đại thần, các Đại Bối lặc đều có quyền cùng bàn việc quốc chính. Dù đã lên ngôi Đại Hãn, nhưng thế lực của Hoàng Thái Cực vẫn không hơn vị trí một kỳ chủ, vì vậy gặp cản trở không ít bởi những thế lực quý tộc Mãn Châu bảo thủ.

Vì vậy, song song với việc loại trừ dần thế lực của các vị Đại Bối lặc, ông còn thực hiện việc cải cách về chế độ quan chức, qua đó phân tán quyền lực của các Bối lặc Bát kỳ. Ông cho mở rộng quyền lực của đại thần Tổng quản các Kỳ, quy định khi nghị bàn chính sự quốc gia hay việc cơ mật, đại thần Tổng quản sẽ cùng tham dự nghị bàn với các Chư vương, Bối lặc. Từ đó, quyền lực trong tay các Chư vương, Bối lặc bị phân chia một phần vào tay đại thần Tổng quản kỳ vụ, phá vỡ cục diện các Chư vương, Bối lặc lũng đoạn quyền lực, thao túng chi phối tình thế (vì mở rộng chủ thể được nghị sự sẽ làm cho ý kiến của các Bối lặc từ đa số sẽ trở thành thiểu số, mặt khác, những vị đại thần tổng quản này theo luật định là dưới quyền của Đại Hãn chứ không phải các vị Bối lặc). Như vậy, đã làm suy yếu một bước nữa quyền lực của các vị chư vương Bối lặc, khiến họ ở trong thế cùng giám sát, khống chế lẫn nhau.

Tiếp theo đó, ông tiếp tục làm giảm ảnh hưởng của các Đại bối lặc. Tháng 2 năm 1629, lấy lý do quan tâm đến tình hình công việc "vất vả quá mức" của Đại bối lặc, Hoàng Thái Cực thay đổi chế độ Đại bối lặc luân lưu chấp chính, đưa các Tiểu bối lặc vào cùng tham gia chấp chính. Bằng lời lẽ văn hoa mỹ miều để trấn an: "Trước đây do phải trực chấp chính hàng tháng, tất cả mọi việc đều phải phiền lụy đến các vị huynh trưởng xử lý, thật vất vả và không tiện. Kể từ nay về sau có thể ra lệnh cho các tiểu bối lặc con cháu thay thế", thực chất là việc hạ thấp vị trí các Đại bối lặc xuống ngang hàng với các Tiểu bối lặc trẻ tuổi, vốn là con cháu của Hoàng Thái Cực, đương nhiên phải phục tùng lệnh vua ban.[22]

Đổi quốc hiệu

Thẩm Dương

Năm 1635, Hoàng Thái Cực bất ngờ tuyên bố đổi tên tộc người của mình từ Nữ Chân thành Mãn Châu, các vùng mà bộ tộc này trú ngụ cũng được gọi là Mãn Châu. Tháng 5 năm 1636, Hoàng Thái Cực lại đổi tên nước từ "Đại Kim" thành "Đại Thanh", chính thức thành lập triều đình nhà Thanh[36] và lên ngôi Hoàng đế.[3][5][7][8][9] Việc đổi tên dân tộc và quốc hiệu đã thể hiện tầm nhìn rộng và sâu sắc của Hoàng Thái Cực vượt hơn các đối thủ chính trị đương thời, điều mà mãi đến đời cháu nội ông là Khang Hy, mới có thể so sánh được.

Theo nhiều tài liệu, sở dĩ quốc hiệu Thanh được lựa chọn, bởi vì tên của nhà "Minh" (明) được cấu thành từ chữ "Nhật" (日, mặt trời) và chữ "Nguyệt" (月, Mặt Trăng), đều liên quan tới Hỏa mệnh, tức là lửa. Trong khi đó, chữ "Thanh" (清) được cấu thành từ bộ "Thủy" (水, nước) và chữ "Thanh" (青, màu xanh lam), đều liên quan đến Thủy mệnh. Theo quan niệm Ngũ hành của người Trung Hoa, Thủy - Hỏa bất dung, Thủy khắc Hỏa, mang nghĩa là nhà Thanh sẽ tiêu diệt và thay thế nhà Minh.[37] "Thanh" (清) còn có nghĩa là "Sự trong sạch",[38] đối lập với triều đình nhà Minh thối nát và tham nhũng.

Hiện tại, người ta chưa rõ vì sao Hoàng Thái Cực chọn cái tên Mãn Châu (, Manju) thay cho tên Nữ Chân (Jurchen) để đặt cho dân tộc mình. Có thuyết cho rằng đây là từ đồng âm trong tiếng Nữ Chân cổ có nghĩa là "dũng cảm". Có thuyết cho rằng, tên tộc Mãn Châu hàm ý chỉ họ là hậu duệ của Văn Thù Sư Lợi (âm Phạn là Mañjughoṣa), vị Bồ tát của trí huệ, mà Nỗ Nhĩ Cáp Xích là một hóa thân. Tuy nhiên, trong tiếng Hán, từ "Mãn Châu" đồng âm với nghĩa "vùng đất đầy đủ, giàu có". Cả hai chữ Mãn Châu (满洲) cũng đều có bộ Thủy.

Bằng việc này, Hoàng Thái Cực đã làm giảm đi rất nhiều thành kiến của người Hán với những hành động cai trị tàn bạo của nhà Kim của người Nữ Chân do Hoàn Nhan A Cốt Đả lập nên, đã cai trị miền bắc Trung Quốc trong thế kỷ 12 và 13. Trong giai đoạn đó, nhà Kim và người Nữ Chân đã để lại những ấn tượng không tốt trong tâm thức của các thế hệ người Hán về sự tàn ác, tham lam, và miệt thị dân tộc. Chỉ bằng một thủ pháp chính trị đơn giản, Hoàng Thái Cực thể hiện ý đồ tranh thủ sự ủng hộ của cả tầng lớp sĩ tộc lẫn binh dân Trung Quốc, xóa đi những thành kiến về dân tộc mình, nâng cao uy thế chính trị để kiến lập đế quốc, thay thế và bao gồm cả lãnh thổ Trung Nguyên.

Hoàng Thái Cực cũng đổi niên hiệu từ Thiên Thông thành Sùng Đức (chữ Hán: 崇德, âm Mãn: Wesihun Erdemungge, âm Mông Cổ: Degede Erdemtü), truy tôn Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Thái Tổ Vũ Hoàng đế, sau cải thành Thái Tổ Cao Hoàng đế, sử sách gọi là Thanh Thái Tổ.[39] Ông định kinh đô của nhà Thanh tại Thịnh Kinh,[40] đổi tên Thịnh Kinh thành Thẩm Dương (chữ Hán: 沈阳, âm Mãn: Mukden) và cho xây dựng một cung điện quy mô tại đây. Đây trở thành đô thành của triều Thanh cho đến khi quân Thanh nhập quan, mới dời về Bắc Kinh để nắm cục diện khống chế toàn quốc.

Bãi bỏ phân biệt sắc tộc

Khác với định kiến sắc tộc hẹp hòi của cha mình,[41] cũng như xuất phát từ quan điểm thu phục nhân tâm của người Hán, đồng thời, chuẩn bị cho việc tấn công xuống phía Nam, sau khi lên ngôi được 8 ngày, Hoàng Thái Cực lập tức ra lệnh cho phép những người dân Hán này vốn là cư dân ở các vùng biên giới hoặc tù binh chiến tranh bị người Kim bắt giữ như chiến lợi phẩm, và sử dụng họ như những nô lệ,[42] được phép lập khu để ở riêng, biên chế thành hộ dân thông thường, chọn quan viên người Hán thanh liêm đến để cai quản. Nhờ đó, rất đông dân Hán đang là thân phận nô lệ ở các trang viên (một hình thức nông nô), được khôi phục lại địa vị của một người dân bình thường. Nhờ đó, ông có thêm được sự cộng tác của các sĩ tộc người Hán, tăng cường thế lực, hạn chế quyền lực, đi đến phá vỡ cục diện bị khống chế bởi các quý tộc Mãn bảo thủ.

Ông mạnh dạn bổ nhiệm và trọng dụng nhiều quan viên người Hán và người Mông Cổ có tài năng, cũng như chú trọng việc chiêu dụ các đối thủ về phục vụ cho mình trong cuộc chiến tranh với nhà Minh mà điển hình là Hồng Thừa Trù, Khổng Hữu ĐứcCảnh Trọng Minh sau này, không quá bận tâm hay quá hoài nghi về nguồn gốc xuất thân, hay các vấn đề về lịch sử bản thân họ. Đây có thể coi là một tư tưởng cấp tiến và đã làm rất nhiều sĩ tộc người Hán và Mông Cổ dốc hết sức mình để báo đáp ân sủng, trong đó điển hình là mưu sĩ Phạm Văn Trình.[43]

Đây chính là bước cải cách đầu tiên của Hoàng Thái Cực, mà trọng tâm là mở rộng sự tham gia của người ngoại tộc vào những thiết chế quan trọng của Hậu Kim,[33][44] là cơ sở xã hội để ông thực hiện các cuộc cải cách về chính trị và quân sự về sau này.

Cải cách nội chính

Bằng việc mở rộng việc tham chính của người ngoại tộc, Hoàng Thái Cực đã nhận được sự giúp đỡ của các mưu sĩ người Hán, từ đó bắt tay vào việc cải cách nội chính, tập trung vào hai nội dung cơ bản. Thứ nhất, củng cố chế độ tập quyền của Đại Hãn, thâu tóm quyền lực, bãi bỏ hoặc vô hiệu hóa các thế lực quý tộc Mãn bảo thủ, để thiết chế quân chủ chuyên chế phong kiến tập quyền tuyệt đối. Thứ hai, xây dựng một chế độ quan lại quy củ, tham khảo quan chế nhà Minh, xác lập cơ chế tuyển chọn quan lại theo tài năng cho tầng lớp sĩ tộc, không phân biệt sắc tộc, bồi dưỡng, chuẩn bị cho một đội ngũ quan lại sẽ giúp ông và con cháu ông cai trị người Hán sau này.

Đầu tiên, với lý do số lượng nhân sự trong các Kỳ tăng lên, ông thành lập và bổ nhiệm các chức vụ đại thần tổng quản (âm Mãn: Amban Janggin, âm Hán Việt: Lãnh Ban Chương Kinh), với chức năng phụ tá cho các Kỳ chủ. Tuy ngôi vị Kỳ chủ vẫn có địa vị cao nhất, có tính thế tập, nhưng đã có thêm các đại thần tổng quản phụ tá, thực chất mới là người điều hành, do Đại Hãn trực tiếp bổ nhiệm. Sau đó, ông tiếp tục mở rộng quyền hạn của họ, cho phép tham gia nghị bàn chính sự cùng với các Chư vương, Bối lặc, từ đó, phân tán quyền lực của các Bối lặc Bát kỳ. Chính từ đó, Hoàng Thái Cực đã có điều kiện để phá vỡ cục diện các chư vương Bối lặc lũng đoạn quyền lực, thao túng chi phối tình thế, chuyển từ chế độ nghị sự sang chế độ mệnh lệnh tối cao.[8]

Hoàng Thái Cực nhận thức được rằng, với cơ cấu quản lý của hình thức bộ lạc du mục sẽ không còn thích hợp với một quốc gia rộng lớn, đông dân, có nhiều khác biệt văn hóa - xã hội. Với sự giúp đỡ của các mưu thần người Hán, ông đã cho thiết lập cơ chế Lục bộ ở Thẩm Dương phỏng theo mô hình triều đình nhà Minh[2] để thực hiện việc quản lý tốt hơn một quốc gia đang trên đà phát triển.

Năm 1629, ông cho thành lập Văn Quán, với mục đích xây dựng một bộ tham mưu chính trị gồm những văn thần trí thức, không phân biệt Mãn, Hán, Mông, sang hèn. Tháng 9 năm đó, ông đã cho tổ chức cuộc thi tuyển quan lại đầu tiên với hơn 300 người tham gia, và có gần 200 vượt qua kỳ thi tuyển này. Rất nhiều sĩ tộc người Hán nhờ cuộc thi này thoát khỏi thân phận nô lệ trở thành người tự do, cùng tham gia vào việc xây dựng những phương châm và chính sách quan trọng đối nội cũng như đối ngoại của triều đình.

Sau khi xưng đế, Hoàng Thái Cực mở rộng Văn Quán thành Nội Tam Viện, gồm Quốc Sử Viện, Bí thư Viện, Hoằng Văn Viện. Mỗi Viện đặt một Đại học sĩ chủ trì, trong đó Bí thư Viện có vai trò thực tế rất quan trọng. Những sắc thư dự thảo cho hoàng đế, các tấu sớ gởi lên, đều phải qua Bí thư Viện. Nhất là các thư tín quan trọng của nhà nước đều phải do đích thân Đại học sĩ của Bí thư Viện thảo ra. Chức vụ này, Hoàng Thái Cực bổ nhiệm một sủng thần người Hán là Phạm Văn Trình nắm giữ. Đây là một điển hình cho người có nguồn gốc phía bắc Trung Quốc phục vụ cho người Mãn Châu.[6]

Cải cách quân đội

Bài chi tiết: Bát Kỳ

Với sự lớn mạnh không ngừng của Hậu Kim, thể chế Bát kỳ đã trở nên chật hẹp, không thể đáp ứng cho việc mở rộng quân đội. Vì thế, cùng với việc mở rộng lãnh thổ, Hoàng Thái Cực phỏng theo cơ cấu Bát kỳ Mãn Châu, tổ chức phát triển thêm các kỳ Mông Cổ ("Mông Cổ Bát Kỳ")[45] và sau đó là các kỳ Hán ("Hán quân Bát Kỳ").[33] Việc mở rộng về cơ cấu Bát kỳ khiến cho biên chế quân chủ lực của nhà Thanh tăng lên đáng kể, lên đến 170.000 binh sĩ trong thời gian người Mãn Châu xâm chiếm Trung Quốc.[2] Bên cạnh quân Bát kỳ Mãn Châu tinh nhuệ là các chiến binh Mông Cổ với sở trường cơ động thiện chiến và các đội quân người Hán mạnh mẽ về bộ binh và công thành.

Bên cạnh đó, Hoàng Thái Cực còn tổ chức tại các vùng mới chiếm được của người Hán một đội quân có tên là Lục doanh quân (綠營兵, lục doanh binh). Ban đầu đây là những đội quân binh của nhà Minh đầu phục quân Thanh, được Hoàng Thái Cực giữ lại để tăng thêm lực lượng. Các chức vụ chỉ huy vẫn giữ nguyên như binh chế nhà Minh như: Tổng binh, Phó tướng, Tham lãnh, Tham tướng, Tá lãnh, Du kích. Về sau, quân số Lục doanh binh phát triển, lớn gấp ba lần tổng quân số Kỳ binh, trở thành lực lượng chiến đấu tại chỗ ở những vùng mới chiếm được và là lực lượng dự bị động viên bên cạnh các đoàn quân Bát kỳ chính quy, thường trực. Về sau, để thống nhất và tiện cho việc chỉ huy, năm 1634, Hoàng Thái Cực quy định các chức vụ quân đội đều phải dùng tên Mãn, như: "Tổng binh" thành "Lãnh Ban Chương Kinh" (âm Mãn: Amban Janggin), "Phó tướng" vi thành "Mai Lặc Chương Kinh" (âm Mãn: Meiren-i Janggin), "Tham tướng" thành "Giáp Lạt Chương Kinh" (âm Mãn: Jalan-i Janggin), "Du kích" thành "Ngưu Lộc Chương Kinh (âm Mãn: Niru-i Janggin)...

Tuy vậy, dù chỉ huy Kỳ binh hay Doanh binh, đều phải là các Bối lặc hoặc các tướng tá xuất thân từ dòng dõi quý tộc hoặc ít nhất phải là người Mãn Châu. Ngay cả các tướng lĩnh phụ tá cũng chủ yếu lựa chọn trong nhóm Bắc Trung Quốc hoặc Nam Mãn Châu.[2]

Bằng đợt cải cách này, quân đội nhà Thanh đã phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Quân Thanh từ việc chỉ có sở trường cơ động của các Kỳ binh, giờ đã trở nên đa dạng cơ cấu, bổ sung lẫn nhau về kỹ thuật, sở trường tác chiến. Ngoài những chiến binh Mãn Châu dũng mãnh, Bát Kỳ còn được bổ sung thêm lực lượng kỵ binh thiện chiến của người Mông Cổ và được bổ sung thêm nguồn binh lực phong phú của người Hán vốn đông đảo, lại có sở trường về các kỹ thuật đánh bộ, công thành, chiếm đất, giữ dân và chiêu hàng đồng tộc. Quân đội Thanh triều từ 6 vạn quân Bát kỳ đã trở thành một đội quân hùng mạnh, tinh nhuệ và đông đảo, là tiền đề cho Hoàng Thái Cực có thể chủ động mở những chiến dịch quy mô để xâm lược Đại Minh sau đó.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hoàng_Thái_Cực http://www.britannica.com/EBchecked/topic/110832 http://news.sina.com/oth/chinesedaily/301-000-101-... http://catalogue.bnf.fr/ark:/12148/cb159981683 http://data.bnf.fr/ark:/12148/cb159981683 http://id.loc.gov/authorities/names/n84018818 http://d-nb.info/gnd/138504326 http://id.ndl.go.jp/auth/ndlna/00627831 http://sillok.history.go.kr/inspection/insp_king.j... http://isni-url.oclc.nl/isni/0000000063146462 http://zh.wikisource.org/wiki/%E6%98%8E%E5%8F%B2/%...